0
Chưa có sách nào trong giỏ hàng

Hệ thống giáo dục của Ấn Độ

11.01.2021

Mối đe doạ về thiếu hụt kĩ năng trong khu vực CNTT đang hiển hiện, và công ti phải lập kế hoạch để giải quyết điều đó. Tăng trưởng của khu vực dịch vụ của Ấn Độ bị đe doạ bởi thiếu hụt lao động kĩ năng cao, nảy sinh từ nhược điểm của hệ thống giáo dục. Đầu tư tăng lên trong công nghiệp CNTT từ các công ti hàng đầu chỉ có thể bù đắp phần nào cho mối đe doạ này.

PHÂN TÍCH: Cả ba công ti phần mềm hàng đầu của Ấn Độ đang phát triển các thể chế giáo dục để tăng số công nhân có kĩ năng cao:

  • Tata Consultancy Services (TCS), công ti lớn nhất trong ba công ti này, đã thiết lập học viện đào tạo, rất có thể bành trướng thêm;
  • Infosys đang lập kế hoạch thiết lập đại học CNTT của mình ở Bangalore; và
  • Wipro đang thăm dò xây dựng đại học đào tạo CNTT ở miền nam Ấn Độ.

Những đầu tư này sẽ nâng chi phí tuyển sinh của họ. Tuy nhiên, với mở rộng nhanh chóng của ngành công nghiệp này, đào tạo CNTT có ưu tiên then chốt khi thiếu hụt kĩ năng nổi lên có thể đe doạ tăng trưởng tương lai. Thập kỉ qua, tỉ lệ tăng trưởng khu vực CNTT hàng năm cỡ 20-30% đã làm cạn kiệt đội ngũ tài năng hiện có, tạo ra thiếu hụt lao động kĩ năng cao và nâng lương lên, đối với kĩ sư CNTT Ấn Độ, được coi là đã gấp bốn so với năm năm qua.

Mặc cho xu hướng này, lương ở Ấn Độ vẫn còn cực kì cạnh tranh khi so với Mĩ, với công nhân khu vực CNTT Ấn Độ kiếm trung bình 18,000 đô la một năm so với 65,00 đô la đối với nhân viên Mĩ. Tuy nhiên, ở các nước cạnh tranh hơn như Singapore, lương trung bình hàng năm là 32,000 đô la, và các nhân tố chi phí khác — như chất lượng của kết cấu nền — vẫn được ưa chuộng hơn. Sức ép chi phí và việc thiếu hụt kĩ năng nổi lên, gợi ý rằng ngành công nghiệp CNTT Ấn Độ có nguy cơ mất ưu thế cạnh tranh hiện thời của mình.

Bành trướng giáo dục. Bước đi phát triển các học viện đào tạo tư là kết quả của sai lầm của hệ thống giáo dục Ấn Độ để tạo ra công nhân CNTT kĩ năng cao. Điều này bất chấp cả số lượng cao các sinh viên tốt nghiệp đại học. Trong mười lăm năm qua, nước này đã chứng kiến tăng trưởng phi thường trong giáo dục ở khu vực thứ ba, với số đại học tư và công cung cấp chất lượng giáo dục cao hơn tăng từ 5,000 tới 12,000. Số các sinh viên kĩ nghệ đã mở rộng với tỉ lệ hàng năm là 20%, với việc Ấn Độ tạo ra 520,000 sinh viên tốt nghiệp kĩ nghệ mỗi năm — con số lớn thứ hai thế giới.

Ấn Độ có một số nhỏ các Viện công nghệ và khoa học theo qui chế tập trung, riêng biệt, cực kì có tính cạnh tranh và là nơi chuẩn đầu vào được giám sát chặt chẽ. Tuy nhiên, bên ngoài những nơi này đã có tăng trưởng bất thần của các đại học công nghệ mới — được quản lí bởi chính phủ bang hay bởi khu vực tư nhân — nơi các chuẩn ít chặt chẽ hơn, và là nơi thành công của ứng dụng có thể phụ thuộc vào sự sẵng lòng của gia đình để trả phí cắt cổ, thay vì thành tích hàn lâm của sinh viên.

Vấn đề chất lượng. Tương ứng với điều đó, số các sinh viên mới không tương xứng bởi việc cải tiến về chất lượng. Hiệp hội phần mềm Ấn Độ, NASSCOM, gần đây đã tiến hành cuộc điều tra và thấy rằng:

  • gần 70% sinh viên tốt nghiệp kĩ nghệ từ miền nam Ấn Độ — nơi phần lớn công nghiệp CNTT lấy làm căn cứ — thậm chí không có kĩ năng cần cho người học trong công nghiệp CNTT;
  • các bang miền bắc ở tình trạng hơi tốt hơn, chỉ với 60% sinh viên tốt nghiệp được coi là không thích hợp cho việc làm trong khu vực này; và
  • hai trong ba sinh viên kĩ nghệ sẽ không thể có đóng góp thoả đáng cho công nghiệp vì thiếu kĩ năng ngôn ngữ hay phân tích cần thiết.

Bản chất của các kì thi trường bang cũng đóng góp cho vấn đề chất lượng. Các kì thi phụ thuộc nặng nề vào việc học cũ rích và hầu như không thúc đẩy tư duy phân tích độc lập. Hơn nữa, các trường công là chủ đề cho các qui tắc phân biệt tích cực, điều đòi hỏi họ chấp nhận một tỉ lệ sinh viên nào đó từ các đẳng cấp thấp hơn, với các chuẩn nhận vào thấp hơn. Ở một số bang miền nam Ấn Độ, nơi 75% vị trí đại học được phân trên cơ sở đẳng cấp và cộng đồng, hành động khẳng định như điều ảnh hưởng nghiêm trọng tới các chuẩn giáo dục và thoả hiệp về chất lượng của sinh viên tốt nghiệp.

Tới mức đó, các qui chế này chỉ áp dụng cho các thể chế thuộc khu vực công, mặc dầu Viện Công nghệ và Khoa học trung tâm đã tuyên bố miễn trừ để thúc đẩy các tài năng cao nhất bất kể đẳng cấp của sinh viên hay bối cảnh cộng đồng. Tuy nhiên, chính phủ do Quốc hội lãnh đạo hiện thời đang chịu sức ép ngày càng lớn — từ các đảng phái “dân tuý” chủ yếu theo vùng — để mở rộng các biện pháp phân biệt tích cực vào Viện Công nghệ và Khoa học trung tâm và giáo dục ở khu vực tư. Nếu chính phủ không thể trụ được với những sức ép này, kết quả có thể là việc tăng số sinh viên tốt nghiệp với tập kĩ năng không phản ánh chất lượng chính thức của họ.

Cơ hội nước ngoài. Số lượng trẻ em tăng lên, từ giai cấp trung bình đang mở rộng nhanh chóng của Ấn Độ, đang nhìn ra nước ngoài để tìm giáo dục bởi vì sự không thích hợp của hệ thống giáo dục quốc nội. Từ năm 1999, số các sinh viên Ấn Độ ở các đại học đã mở rộng nhanh chóng:

  • từ 36,000 lên 79,000 ở Mĩ;
  • từ 6,000 lên 15,000 ở Anh; và
  • từ 8,000 lên 20,000 ở Australia.

Đến 2025, một nửa số sinh viên quốc tế ở đại học trên khắp thế giới sẽ có nguồn gốc Ấn Độ. Qua thời kì hai năm trong những năm 1990, 65% sinh viên tốt nghiệp từ Viện Công nghệ Ấn Độ ở Chennai được được ước lượng rời khỏi đất nước. Tuy nhiên, mặc cho sự tăng trưởng rõ ràng về số sinh viên Ấn Độ ở hải ngoại, các đại học nước ngoài vẫn còn đắt đỏ tới mức ngăn cản tất cả mọi người chỉ trừ người ở cấp bậc cao trong đẳng đấp trung bình của nước này. Một tỉ lệ rất nhỏ các sinh viên Ấn Độ được giáo dục ở nước ngoài trở về đất nước sau khi hoàn thành việc học tập ở nước ngoài, làm tồi tệ thêm sự thiếu hụt kĩ năng. Trong khi việc cải tiến gần đây về cơ hội kinh tế ở Ấn Độ đã thấy luồng chảy vững chắc của những người Ấn Độ trở về nước, đại đa số vẫn tiếp tục sống làm việc ở nước ngoài.

Đầu tư giáo dục. Chính phủ trung tâm không thể dành tài nguyên thêm cho các viện học tập bên thứ ba do nhu cầu tăng chi tiêu trong giáo dục cơ sở. Trong khi cải tiến tỉ lệ học vấn đã cho Ấn Độ hi vọng về phát triển lực lượng lao động khu vực chế tạo ‘nửa kĩ năng’, việc mở rộng các thể chế bên thứ ba chất lượng cao đã trở nên mất chất lượng xem như kết quả. Các công ti như Infosys ,Wipro và TCS đang đối diện với thách thức kĩ năng và, trong tương lai trước mắt, các sáng kiến giáo dục của riêng họ có thể thoả mãn cho nhu cầu lao động riêng của họ. Tuy nhiên, đại đa số các công ti CNTT Ấn Độ nhỏ hơn nhiều do vậy không có khả năng đầu tư tương tự vào phát triển kĩ năng.

KẾT LUẬN: Trách nhiệm của giáo dục thế hệ sau các kĩ sư CNTT có thể rơi ngày càng nhiều vào bản thân ngành công nghiệp công nghệ. Hơn nữa, bởi vì những khiếm khuyết dai dẳng trong hệ thống giáo dục quốc qua, ưu thế hiện thời của Ấn Độ trong dịch vụ CNTT — kể cả doanh nghiệp và khoán ngoài qui trình-tri thức — có thể chứng tỏ ngày càng khó duy trì.

—-English version—-

 

India’s education systems

The looming threat of a skills shortage in the key IT sector, and corporate plans to deal with it. India’s service sector growth is threatened by a shortage of highly-skilled labor, resulting from weaknesses in the education system. Increased investment in IT education by leading companies may only partially off set this threat.

ANALYSIS: All three of India’s leading software companies are developing educational institutions to increase the number of high-skilled workers:

  • Tata Consultancy Services (TCS), the largest of the three, has already set up a training institute, which it is likely to expand;
  • Infosys is planning to establish its own IT college in Bangalore; and
  • Wipro is proposing to build an IT training college in southern India.

These investments will raise their recruiting costs. However, given the industry’s rapid expansion, IT education is a key priority as an emerging skills shortage may threaten future growth. Over the last decade, annual IT sector growth rates of 20-30% have depleted existing talent pools, producing high-skilled labor shortages and driving up salaries which, for Indian IT engineers, are thought to have quadrupled over the past five years.

Despite this trend, Indian wages remain extremely competitive as compared to the United States, with Indian IT sector workers earning an average of 18,000 dollars a year against 65,00 dollars for US employees. However, in more competitive countries like Singapore, average annual salaries are 32,000 dollars, and other cost factors — such as quality of infrastructure — are more favorable. Cost pressures and an emerging skills shortage, suggest that the Indian IT industry is at risk of losing its current competitive advantage.

Educational expansion. The move to develop private training institutes is a result of the Indian education system’s failure to produce high-skilled IT workers. This is despite the high number of college graduates. In the last fifteen years, the country has seen prodigious growth in tertiary-sector education, with the number of private and public colleges offering higher educational qualifications rising from 5,000 to 12,000. The number of engineering students has expanded at an annual rate of 20%, with India producing 520,000 engineering graduates each year — the second largest number in the world.

India has a small number of exclusive, centrally-regulated Institutes of Technology and Science, which are extremely competitive and where entry standards are closely monitored. However, beyond these there has been a sudden growth of new technology colleges — run either by state governments or by the private sector — where standards are less rigorous, and where the success of an application may depend on the family’s willingness to pay exorbitant admission fees, rather than the
student’s academic record.

Quality problems. Accordingly, the number of new graduates is not matched by improvements in quality. India’s software association, NASSCOM, recently commissioned a survey which found that:

  • nearly 70% of engineering graduates from southern India — where most of the IT industry is based — do not even possess the skills required for traineeships in the IT industry;
  • northern states fared slightly better, with only 60% of graduates deemed inadequate for jobs in the sector; and
  • two out of every three engineering graduates would be unable to make a satisfactory contribution to the industry for lack of the requisite analytical or linguistic skills.

The nature of state school examinations also contributes to the problem of quality. Exams depend! heavily on rote learning and do little to promote independent analytical thinking. Moreover, public schools are subject to rules of positive discrimination, which require them to admit a certain proportion of students from the lower castes, at lower admissions standards. In certain southern Indian states, where 75% of college places are allocated on the basis of caste and community, such affirmative action severely affects educational standards and compromises the quality of graduates.

Thus far, these regulations have only applied to public-sector institutions, although the central Institutes of Technology and Science have claimed exemption to foster the highest talents regardless of a student’s caste or community background. However, the present Congress-led government is coming under increasing pressure — from mainly regional ‘populist’ parties — to extend positive discrimination measures into the central Institutes of Technology and Science and private sector education. If the government is unable to withstand these pressures, the result may be an increase in the number of graduates with skill-sets that do not reflect their formal
qualifications.

Foreign opportunities. An increasing number of children from India’s rapidly expanding middle class are looking abroad for an education because of the inadequacies of the domestic education system. Since 1999, the number of Indian students in colleges abroad has expanded rapidly:

  • from 36,000 to 79,000 in the United States;
  • from 6,000 to 15,000 in the United Kingdom; and
  • from 8,000 to 20,000 inAustralia.

By 2025, half of all international students at universities around the world will be of Indian origin. Over a two-year period in the 1990′s, 65% of graduates from the Indian Institute of Technology in Chennai were estimated to have left the country. However, despite the apparent growth in the number of Indian students overseas, foreign universities remain prohibitively expensive for all but the upper echelons of the country’s middle class. A very small proportion of foreign-educated Indian students return to the country after completing their studies abroad, further compounding the skills shortage. While recent improvements in economic opportunities in India have seen a steady stream of non-resident Indians returning home, the great majority continue to spend their working lives abroad.

Educational investment. The central government is unable to devote additional resources to tertiary institutes of learning due to the need to increase expenditure in primary education. While improving literacy rates have given India hope of developing a ‘semi-skilled’ manufacturing-sector workforce, the expansion of high quality tertiary institutions has suffered as a result. Companies such as Infosys ,Wipro and TCS are facing up to the skills challenge and, in the immediate future, their own educational initiatives may satisfy their own labor needs. However, the great majority of Indian IT companies are much smaller and thus unable to make similar investments in skills development.

CONCLUSION: The onus of educating the next generation of IT engineers is likely to fall increasingly on the technology industry itself. Moreover, in view of the persistent deficiencies in the national education system, India’s present advantages in IT services — including business and knowledge-process outsourcing — could prove increasingly difficult to sustain.